Menu


Thứ Hai, 17 tháng 2, 2014

Thuốc chữa bệnh parkinson hiệu quả

Các phương pháp điều trị triệu chứng bắt đầu khi bạn xuất hiện những dấu hiệu thoái hóa chức năng. Lựa chọn phương phá điều trị tùy thuộc vào nguyên nhân của sự thoái hóa.
Việc nhận dạng Parkinson ngay từ giai đoạn đầu có thể giúp các nhà khoa học tìm ra những phương pháp mới hơn nhằm bảo vệ vùng vận động khỏi bị hư hại tiếp. “Chúng tôi hiện không có tác nhân nào để ngăn chặn sự thái hóa của Parkinson”, Postuma nói. “Nhưng một khi chúng tôi có được những tác nhân đó, thì theo tôi, mọi bệnh nhân mắc chứng rối loạn giấc ngủ REM đều nên dùng”.
Theo y học phương Đông thì nguyên nhân chính gây nên bệnh Parkinson là do ảnh hưởng của tuổi già, do Can huyết và Thận âm bị suy yếu. Huyết bị suy kém không nuôi dưỡng được các khớp và các mạch máu gây nên co rút, co cứng, run giật. Âm hư thì dương vượng sẽ khiến cho Can phong nội động. Nếu phong hợp với đờm thấp thì kinh lạc sẽ bị ngăn trở gây ra run.
Nhận biết bệnh parkinson
Bệnh diễn tiến âm thầm, triệu chứng có thể chỉ ở một bên cơ thể. Đến khi có các triệu chứng sau đây bệnh mới được phát hiện:
Tăng trương lực cơ: đặc trưng bởi hiện tượng bánh xe răng cưa, xuất hiện khi bệnh nhân co duỗi thụ động các khớp cổ tay, khuỷ tay.
Run: thường ở đầu ngón tay, trường hợp nặng có thể run cả cẳng tay và bàn tay. Đặc điểm là run xuất hiện khi nghỉ và giảm mất khi người bệnh chú ý làm việc khác, bàn tay vê vê như đếm tiền.
Mặt bất động: vẻ mặt trở nên cứng, không biểu hiện được cảm xúc trên khuôn mặt, dù mắt rất linh hoạt.
Lúc trước chỉ cần có 2 trong 3 triệu chứng chính (run giật, cứng khớp và di chuyển chậm chạp) là đã có thể xác định chẩn đoán bệnh Parkinson. Những tiêu chuẩn này nếu đứng riêng rẽ sẽ sai lầm trong khoảng 25% trường hợp.
Những nghiên cứu khảo sát lại trên những bệnh nhân đã được xác định chẩn đoán cho thấy triệu chứng giúp chẩn đoán bệnh Parkinson chính xác nhất là run giật, tính chất không đối xứng (triệu chứng chỉ xuất hiện ở 1 bên của cơ thể) và đáp ứng tốt với levodopa (Dopar, Larodopa). Tuy nhiên, những triệu chứng trên vẫn không thể lúc nào cũng giúp chẩn đoán chính xác được vì có những bệnh có các triệu chứng tương tự như Parkinson.
Thuốc để bổ sung dopamine không được sản xuất ở não, loại levodopa. Vào tới não, Levodopa sẽ chuyển hóa thành dopamine. Levodopa thường được dùng phối hợp với môt loại thuốc khác (carbidopa) để giảm thiểu tác dụng phụ của levodopa và tăng cường hiệu năng của thuốc này. Tác dụng phụ của levodopa gồm có ngây ngất, giảm huyết áp khi đứng lên, ác mộng, rối loạn vận động, buồn nôn, đau bụng, hồi hộp, đôi khi hoang tưởng
Tại nước ta, phương pháp điều trị bệnh Parkinson chính thống là dùng thuốc levodopa. Nhưng hạn chế của phương pháp này là thuốc chỉ có hiệu quả trong 10 năm đầu điều trị. Thời gian sau đó, có thể dễ dàng nhận thấy hiệu quả của thuốc sẽ giảm đi đáng kể và các triệu chứng bệnh sẽ trở nên khó kiểm soát hơn.
Ở những bệnh nhân Parkinson chức năng của ty lạp thể trong tế bào bị tổn thương và do đó tế bào sẽ thiếu hụt Coenzyme Q10. Vì thế người bệnh nên bổ sung sản phẩm thuoc Coenzyme Q10 tổng hợp để làm chậm sự thoái hóa thần kinh do bệnh Parkinson gây ra.
Có thể kể đến như Piribedil, loại thuốc này có tác dụng kích thích thụ thể dopamin D2 hậu synape của thể vân. Thuốc được chỉ định điều trị bệnh Parkinson giai đoạn sớm đơn trị liệu hoặc dùng phối hợp với levodopa và các thuốc khác.
Gần đây các nhà khoa học Hoa Kỳ đã phát hiện ra việc sử dụng Coenzyme Q10 (CoQ10) với hàm lượng cao sẽ giúp giảm đi một nửa thời gian tiến triển của bệnh

Chủ Nhật, 16 tháng 2, 2014

Điều trị bệnh parkinson bằng Coenzyme q10

Điều trị bệnh parkinson như thế nào?
Tim hieu benh Parkinson la gi?
Bệnh parkinson còn gọi là bệnh Liệt Run, nguyên nhân gây ra hiện tượng này là do những tổn thương thoái hoá ở vài vùng trên não, đưa đến sự thiếu hụt chất sinh học là Dopamin. Bệnh thường gặp ở người lớn tuổi, từ 50-65.
Bệnh Parkinson là một trong những bệnh liên quan đến cử động của cơ thể phổ biến nhất, gặp trong khoảng 1% người trên 60 tuổi, nam bị nhiều hơn nữ gấp 1,5 lần, và càng ngày càng xuất hiện nhiều ở thời đại của chúng ta.Độ tuổi khởi bệnh trung bình vào khoảng 60 tuổi. Hiếm gặp các trường hợp khởi bệnh trước 40 tuổi.
Bệnh Parkinson, người ta thấy hiện tượng thoái hóa tế bào não ở vùng chất đen (substantia nigra) thuộc trung não. Từ chất đen, có những đường nối thần kinh liên kết đến một phần khác của não gọi là thể vân (corpus striatum), nơi chế tiết ra một chất dẫn truyền thần kinh tên là Dopamin. Dopamin vốn là một chất dẫn truyền thần kinh quan trọng nên những sự thay đổi của nó sẽ dẫn đến nhiều vấn đề khỏe khác nhau.
Sự thiếu hụt những tế bào não này và sự thay đổi chế tiết Dopamin là nguyên nhân dẫn đến những triệu chứng và các dấu hiệu của bệnh Parkinson và đồng thời cũng là mục tiêu điều trị. Cơ chế sinh lý của hiện tượng thiếu hụt tế bào não này vẫn chưa được xác định.
Xác định nguyên nhân gây bệnh Parkinson
  1. Mục tiêu đặt ra ở đây là khám phá nguyên nhân tại sao khi những neuron thần kinh này bị phá hủy lại gây ra bệnh Parkinson.
  2. Có nhiều giả thuyết được đặt ra nhưng nhiều nhà nghiên cứu tin rằng Parkinson không được gây ra bởi chỉ duy nhất một thủ phạm mà nó là sự kết hợp của hai tác nhân: sự nhạy cảm mang tính chất di truyền và những tác động xấu gây ra bởi môi trường xung quanh dẫn đến sự thoái hóa của tế bào não. 
  3. Nhiều nghiên cứu phát hiện ra rằng sống ở môi trường nông thôn, uống nước giếng, tiếp xúc nhiều với thuốc trừ sâu, thuốc diệt cỏ, sống gần nhà máy gỗ có thể gia tăng nguy cơ mắc bệnh.
  4. Người ta đã chứng minh được rằng có khoảng 5 - 10% bệnh nhân Parkinson có xu hướng di truyền. Một nghiên cứu gần đây phát hiện ra có một gene đột biến ở trong nhóm người mắc bệnh. Mặc dù gen đột biến này không phải là nguyên nhân của tất cả những trường hợp bệnh nhưng phát hiện này đã mở ra cơ hội cho các nhà khoa học thực hiện thêm các nghiên cứu trên động vật để tiếp cận sâu hơn nữa đối với bệnh Parkinson.
  5. Ở bệnh Parkinson, glutathione bị thiếu do đó cơ thể mất đi sự bảo vệ cần thiết chống lại sự hình thành những gốc hóa học tự do.
  6. Hơn nữa, sự gia tăng chất sắt trong não có thể làm tăng sự tạo thành các gốc tự do.
  7. Ngoài ra, sự oxy hóa lipid cũng gia tăng ở bệnh Parkinson.
  8. Sự liên quan giữa bệnh Parkinson với sự tăng tốc đào thải Dopamin, sụt giảm các yếu tố bảo vệ (glutathione) chống lại các gốc tự do, tăng lượng chất sắt (làm cho sự tạo thành các gốc tự do xảy ra dễ dàng hơn) và gia tăng oxy hóa lipid đã giúp củng cố giả thuyết về sự Oxy hóa này.
  9. Nhưng cho dù giả thuyết này có được xem là đúng đi chăng nữa thì nó vẫn không thể giải thích được tại sao hoặc bằng cách nào mà cơ thể lại bị mất đi cơ chế tự bảo vệ. Câu trả lời vẫn còn được để ngỏ. Và nếu giả thuyết này đúng, người ta có thể điều chế thuốc để ngăn chặn hoặc làm chậm đi các triệu chứng này.
Mặc dù nguyên nhân của bệnh Parkinson vẫn chưa được khám phá ra, nhưng vẫn có những trường hợp các triệu chứng của bệnh Parkinson có thể xác định được nguyên nhân một cách rõ ràng. Trong trường hợp này, người ta gọi các hội chứng trên là Parkinson thứ phát.
Hầu hết những loại thuốc chống rối loạn thần kinh hoặc thuốc an thần như Chlorpromazine (Thorazine), haloperidol (Haldol) và Thioridazine (Mellaril) có thể gây ra những triệu chứng của Parkinson.
Valproic acid (Depakote), vốn được sử dụng rộng rãi như là một loại thuốc chống co giật, có thể gây ra triệu chứng Parkinson ngược lại.
Những loại thuốc như metoclopramide (Octamide, Maxolon, Reglan), được dùng để điều trị những rối loạn của dạ dày chẳng hạn như loét dạ dày, có thể gây ra Parkinson thứ phát hoặc làm cho tình trạng tồi tệ hơn
Triệu chứng của bệnh Parkinson
Ba đặc điểm nhận dạng 1 bệnh nhân Parkinson là run (lắc, vẫy) khi nghỉ ngơi, cứng khớp và chậm chạp khi bắt đầu một cử động nào đó (được gọi là bradykinesia). Chẩn đoán xác định khi bệnh nhân có 2 trong 3 đặc điểm trên. Tư thế không vững là dấu hiệu thứ tư,tuy nhiên nó chỉ xuất hiện trong trường hợp muộn, thường là khi BN đã bị bệnh được 8 năm hoặc hơn.
Dấu hiệu run một bàn tay
Ở hầu hết các trường hợp thì nó sẽ trở nên tồi tệ hơn trong tình trạng stress và cải thiện khi nghỉ ngơi hoặc ngủ.
Thời gian sau đó, có thể là vài tháng hoặc vài năm, người bệnh parkinson có những dấu hiệu run 2 bàn tay kèm theo những triệu chứng run giật có thể có ở lưỡi, môi, hoặc cằm.
Tính chất run giật của bệnh hiện diện và dễ thấy nhất ở các chi khi nghỉ ngơi.
Động tác run giật của bệnh nhân giống như động tác đang lăn 1 viên thuốc bằng bàn tay hoặc chỉ là sự run vẩy bàn tay hoặc cánh tay.
Cảm giác cứng khớp và cử động trở nên rất khó khăn
Bạn có thể nhờ người khác co và duỗi cổ tay của bạn trong trạng thái nghỉ ngơi để kiểm tra dấu hiệu này.Cứng khớp có thể thấy rõ ràng hơn khi có những cử động cố ý của chi đối bên.
Di chuyển vô cùng chậm chạp.
Triệu chứng này không chỉ ám chỉ đến sự chậm chạp trong di chuyển mà còn bao hàm cả giảm các cử động tự ý và tăng phạm vi cử động.
Nó được biểu hiện ra ngoài bằng các dấu hiệu: viết chữ nhỏ, giảm khả năng thể hiện cảm xúc ở khuôn mặt, giảm tỷ lệ chớp mắt và nói nhỏ.
Đứng không vững
Cảm giác mất thăng bằng
Coenzyme Q10 dieu tri benh Parkinson
Chẩn đoán xác định Parkinson rất khó khăn. Không có một xét nghiệm máu hoặc các xét nghiệm đặc hiệu nào có khả năng giúp thiết lập chẩn đoán. Thật ra thì lấy một mẫu mô não là cách duy nhất để khẳng định chẩn đoán một cách chắc chắn nhất cho dù điều này có vẻ như không thực tế cho lắm.
Theo các nghiên cứu của các nhà khoa học trên thế giới 
Những bệnh nhân uống CoQ10 ở các liều khác nhau hoặc dùng giả dược, mỗi ngày 4 lần, trong 16 tháng hoặc đến khi cần dùng thuốc điều trị truyền thống như L-dopa. Và kết quả cho thấy:
  • Tất cả bệnh nhân dùng CoQ10 đều tiến triển tốt hơn.
  • Hiệu quả rõ nét nhất là ở nhóm dùng thuốc liều cao (1.200 mg/ngày): bệnh tiến triển chậm hơn 44%.
  • Ở nhóm dùng 300 hoặc 600 mg CoQ10, bệnh tiến triển chậm hơn 20%.


coenzyme q10 dieu tri benh parkinson

Cơ thể sẽ tự sản xuất CoQ10 để đáp ứng nhu cầu hoạt động của ty lạp thể (Thành phần quan trọng của tế bào chịu trách nhiệm chuyển hóa các loại dưỡng chất thành năng lượng). CoQ10 gần giống với một loại vitamin. Lúc bạn còn trẻ một ngày trung bình cơ thể sẽ sản xuất ra khoảng 300 mg CoQ10, và mức độ này sẽ giảm dần khi tuổi tác tăng lên, bắt đầu là sau 30 tuổi.
Những kết quả nghiên cứu cho thấy những lợi ích của Coenzyme Q10 trong điều trị bệnh parkinson là hết sức rõ ràng.
Bài viết: coenzyme Q10 điều trị bệnh parkinson

Thứ Năm, 6 tháng 2, 2014

Nguyên nhân và tác hại của bệnh động mạnh vành

Bệnh mạch vành là một loại bệnh tim thường gặp nhất, đó là hậu quả từ tình trạng xơ vữa động mạch do sự lắng đọng từ từ tạo nên những mảng cứng trong lòng động mạch cung cấp máu để nuôi sống trái tim (động mạch vành.Các mảng lắng đọng này chứa mỡ, cholesterol, calcium và những chất thải của tế bào vào dòng máu, có thể gây hẹp lòng động mạch vành và giảm lưu lượng dòng máu nuôi dưỡng quả tim, có thể gây những cơn đau ngực. Sự tắc nghẽn hoàn toàn mạch vành hoặc một trong những nhánh quan trọng của nó sẽ gây ra nhồi máu cơ tim.
Bệnh động mạch vành là bệnh như thế nào?
Danh từ bệnh động mạch (ĐM) vành dùng để chỉ tình trạng bệnh lý làm cho lòng ĐM vành bị hẹp lại (hoặc tắc nghẽn), tình trạng hẹp hay tắc nghẽn lòng ĐM vành là xơ vữa ĐM.
Khi lòng ĐM vành bị hẹp đến một mức độ nào đó thì dòng máu đến nuôi tim sẽ không đủ và dẫn đến tình trạng thiếu máu cơ tim.
Một số danh từ khác cũng được dùng để chỉ bệnh ĐM vành: như suy ĐM vành, thiếu máu cơ tim, thiểu năng vành, bệnh tim thiếu máu cục bộ…
Nguyên nhân của bệnh ĐM vành?
Hầu hết các trường hợp bệnh ĐM vành là do xơ vữa ĐM gây nên. Nguyên nhân của xơ vữa ĐM thì chưa được xác định rỏ ràng. Hiện nay, khi nói đến nguyên nhân của bệnh lý ĐM vành người ta dùng đến khái niệm yếu tố nguy cơ (YTNC) của bệnh ĐM vành.
YTNC của bệnh ĐM vành là gì? YTNC của bệnh ĐM vành là những yếu tố mà khi hiện diện ở một cá thể nào đó thì làm cho cá thể đó có tỷ lệ mắc bệnh ĐM vành, tỷ lệ thương tật, tỷ lệ tử vong do ĐM vành cao hơn các cá thể khác.
YTNC của bệnh ĐM vành là những yếu tố nào? Đó là: tăng huyết áp, rối loạn lipid máu (LDL cao, HDI thấp, Triglyceride cao). Hút thuốc lá, Béo phì, Đái tháo đường, gia đình có người bị bệnh ĐM vành sớm, Tuổi cao…
Hậu quả của bệnh ĐM vành?
Hẹp lòng ĐM vành sẽ gây ra tình trạng thiếu máu cơ tim, tình trạng này có thể kéo dài lâu ngày. Bệnh nhân sẽ bị đau ngực, suy tim, rối loạn nhịp tim và nguy cơ bị nhồi máu cơ tim cấp.
Khi mảng xơ vữa trong lòng ĐM vành vỡ ra thì sẽ làm bít tắc hoàn toàn ĐMvành và gây ra thiếu máu cơ tim cấp tính, nặng nề, hoại tử cơ tim – còn được gọi là nhồi máu cơ tim cấp. Tỷ lệ tử vong do nhồi máu cơ tim cấp rất cao. Bệnh nhân qua được cơn nhồi máu cơ tim cấp có thể sẽ bị suy tim sau nhồi máu cơ tim, bị rối loạn nhịp tim sau nhồi máu cơ tim.

Tại sao bị cao huyết áp

Cao huyết áp (CHA) hiện là bệnh mãn tính phổ biến nhất trong cộng đồng. Nguyên nhân chưa được biết rõ, tuy nhiên, ngày càng có nhiều bằng chứng cho thấy yếu tố môi trường (dinh dưỡng, lối sống) kết hợp với yếu tố di truyền là nguyên nhân chính gây ra bệnh này.
Tham khảo: dieu tri dau nua dau
Các nghiên cứu dịch tễ học cho thấy, rõ ràng môi trường có vai trò to lớn, vì ở một số cộng đồng không có vấn đề CHA, nhưng nếu cộng đồng đó thay đổi lối sống, cách ăn uống, CHA có thể tăng cao với tỉ lệ tới 30% dân chúng. Cùng trong môi trường sống bất lợi đó, không phải ai cũng bị CHA mà chỉ có những người có yếu tố di truyền (genotype) bị mắc mà thôi. Ngược lại, ở những cộng đồng sống bằng săn bắn, hái lượm có lượng sodium (Na+) tiêu thụ thấp và lượng potassium (K+)tiêu thụ cao trong khẩu phần ăn thì không có CHA.
Tham khảo: Cai thien kha nang sinh san nam gioi
Các nghiên cứu cũng cho thấy, một số người, với một sự bất thường nào đó của genotype (mà hiện nay chưa xác định), khi tiếp xúc với chế độ ăn có lượng Sodium (Na+) cao, lượng potassium (K+) thấp, với những thay đổi trong lối sống như stress, uống rượu, mập phì… dẫn đến tăng huyết áp.Các bất thường về gene có thể liên quan đến việc tổn thương hệ thống kiểm soát thải NaCl hoặc là sự khiếm khuyết của thận trong khả năng thải Na+. Như vậy, CHA được gọi là vô căn (Essential hypertention) nhưng thực ra cũng có nguyên nhân, đó là sự thay đổi chế độ ăn, lối sống ở những người có yếu tố gen nhạy cảm CHA. Vấn đề thách thức trong thời gian tới là xác định được các đối tượng này, để tác động vào chế độ ăn và lối sống, để bảo vệ họ phòng ngừa việc xuất hiện CHA ở họ.